‘Gia-cốp trả lời Rê-bê-ca, mẹ mình, ‘Nhưng Ê-sau anh con là người lông lá còn con thì nhẵn nhụi’ (Sáng thế ký 27: 11).
Palmology (thuật xem chỉ tay), giống như phrenology, là lang băm. Nhưng bàn tay chắc chắn rất hữu ích khi tìm hiểu tính cách của ai đó.
1. Tỷ Lệ 2D:4D Giữa Ngón Trỏ Và Áp Út
Một chỉ số được thừa nhận rộng rãi về sự phơi nhiễm androgen (nội tiết tố nam) trong tử cung được gọi là tỷ lệ ngón trỏ 2D:4D phản ánh tỷ lệ giữa độ dài của ngón trỏ và ngón áp út (Manning, 2003 hoặc Manning & Fink, 2011 ). Tỷ lệ 2D:4D thường được cho là phản ánh tác động đến bào thai khi nó tiếp xúc với nội tiết tố nam trong tử cung, chủ yếu là testosterone. Tỉ lệ càng thấp (ngón trỏ càng ngắn) thì bào thai đã tiếp xúc với nhiều Testosterone hơn. Tỷ lệ chỉ số 2D:4D có tương quan với biến thể di truyền trong các thụ thể androgen (Manning và cộng sự, 2003). Nam giới có thụ thể ít nhạy cảm với testosterone có kết quả cao hơn (tức là ngón trỏ càng dài). Nói cách khác, nếu hình dạng các ngón tay mượt mà hơn, giống cái xẻng hơn, thì lượng testosterone cao. Ngược lại, nếu ngón út nhỏ hơn đáng kể so với ngón giữa, vốn rất phổ biến ở phụ nữ, thì mức độ tiếp xúc testosterone thấp hơn. Không có gì đáng ngạc nhiên, như đã nói trước đây, bệnh tự kỷ có liên quan đến tỷ lệ 2D:4D thấp (=Testosterone cao) (Baron-Cohen, 2002). Bàn tay rất nữ tính, ở cả hai giới, có liên quan đến bệnh tâm thần phân liệt (Arato và cộng sự, 2004).
Tỷ lệ 2D:4D cao cũng có liên quan đến đồng tính luyến ái, cuồng dâm, chuyển giới và ấu dâm. Không rõ chính xác lý do tại sao lại như vậy nhưng Blanchard (2008) cho rằng đó là vì bào thai đã xúc nhiều với các nội tiết tố nữ trong tử cung. Blanchard lập luận rằng nếu con trai càng có nhiều anh trai, thì người mẹ càng sản xuất ra nhiều loại hormone này, nghĩa là việc ai đó có càng nhiều anh trai càng có nguy cơ bị đồng tính luyến ái.
Ngược lại, có bằng chứng cho thấy trong giai đoạn đầu phát triển của bé gái, càng tiếp xúc nhiều với Testosterone thì bé càng ít có xu hướng tính dục dị tính hơn (tức là tăng khả năng bị lưỡng tính, đồng tính) (Hines, 2011).
(ND: Các bạn có thể tìm hiểu thêm về tác hại của việc bào thai bị phơi nhiễm với nội tiết tố nữ qua vụ scandal Diethylstilbestrol (DES), một loại Estrogen nhân tạo rất mạnh, được kê toa cho các bà mẹ để phòng ngừa sảy thai, từ 1940-1971.
“Tiến sĩ. Scott Kerlin, một nhà khoa học nghiên cứu chính về Diethylstilbestrol (DES)và là người sáng lập Mạng lưới Nghiên cứu Quốc tế DES Sons vào năm 1996, đã ghi nhận trong 20 năm qua tỷ lệ cao những người bị phơi nhiễm với DES trước khi sinh, tự nhận mình là người chuyển đổi giới tính từ nam sang nữ, người chuyển giới hoặc có tình trạng liên giới tính và nhiều cá nhân báo cáo có tiền sử gặp khó khăn với chứng phiền muộn giới (cảm thấy không thoải mái với giới tính sinh học của mình)”
…………….
“Một số nhà khoa học cho biết não của bào thai nữ, không giống như bào thai nam, có cơ chế ngăn chặn hoạt động của một số estrogen tự nhiên. Nhưng DES và các estrogen nhân tạo khác có các đặc tính hóa học đặc biệt cho phép chúng vượt qua các biện pháp kiểm soát thông thường đối với sự phát triển. Chúng xâm nhập vào não bào thai dễ dàng hơn và, nghiên cứu gợi ý, kích hoạt quá trình nam tính hóa, ảnh hưởng đến xu hướng tính dục.”
2. Những Ngón Tay Và Bộ Ngực Đầy Lông
Mức độ lông cơ thể có liên quan đến nồng độ androgen (Hamilton, 1958). Một đại diện nổi tiếng cho mức độ lông lá, là lông trên đốt giữa của ngón áp út (Mid-Phalangeal hair). Một số đánh giá và phân tích tổng hợp đã tập hợp dữ liệu có sẵn về mức độ trung bình của loại lông này ở các quốc gia khác nhau (Hindley & Damon, 1973; Westlund và cộng sự, 2015). Ngón tay có lông ở nam giới là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy lượng testosterone cao. Nói rộng ra, họ cũng có nhiều lông ở những chỗ khác hơn. Ta có thể thấy điều này trong sách Sáng Thế Ký với hai anh em Jacob và Ê-sau. Ê-sau, “người lông lá”, là người hung hăng và vô văn hóa hơn Jacob. Một lần nữa, đây chỉ là một dấu chỉ nội trong các chủng tộc. Các chủng tộc khác nhau có độ rậm lông khác nhau. Ví dụ, người da đen ít lông hơn người da trắng. Có ý kiến cho rằng gen của người Neanderthal có thể là nguyên nhân đằng sau bản chất tương đối nhiều lông của người da trắng (Dutton và cộng sự, 2016).
3. Thuận Tay Trái
Quan sát xem ai đó viết hoặc vẫy tay bằng tay nào sẽ giúp bạn đưa ra những suy luận về tâm lý của họ. Nghiên cứu ban đầu chỉ ra rằng những người thuận tay trái có thể chiếm đa số những người có điểm trên trung bình đối với các thước đo cụ thể về khả năng nhận thức (Benbow, 1986; Halpern và cộng sự, 1998). Tuy nhiên, các nghiên cứu trên những nhóm mẫu thử lớn hơn với các biện pháp đo lường trí thông minh chung chỉ ra một cách nhất quán rằng, trung bình, những người thuận tay trái gặp bất lợi nhẹ về nhận thức so với những người thuận tay phải (Goodman, 2014; Johnston và cộng sự, 2013; Nicholls và cộng sự, 2010), và trong đời thực, các nhóm này có những khác biệt như thu nhập (Goodman, 2014). Cho nên, những người có trí thông minh rất cao nhưng hẹp; ví dụ, những người cực kỳ thông minh ở môn Toán (như Isaac Newton) có mức độ thuận tay trái cao. Tuy nhiên, nhìn chung, người thuận tay trái kém thông minh hơn người thuận tay phải.
Một giả thuyết (Markow, 1992) cho rằng thuận tay trái là hậu quả của việc giảm sự ổn định về mặt phát triển (developmental stability). Do đó, tỷ lệ thuận tay trái tăng cao có liên quan đến một số chỉ báo về sự bất ổn định trong quá trình phát triển, bao gồm bệnh tự kỷ (Soper và cộng sự, 1986), tâm thần phân liệt (Dragovic & Hammond, 2005), rối loạn miễn dịch (Geschwind & Behan, 1982), rối loạn tâm sinh lý chẳng hạn như cuồng dâm (Rahman và cộng sự, 2007), ấu dâm và đồng tính luyến ái (Blanchard, 2008). Trong những người đồng tính luyến ái, việc thuận tay trái phổ biến hơn nhiều ở những người có vai trò phục tùng hơn là ở những người thống trị (Swift-Gallant và cộng sự, 2017). Thuận tay trái đồng nghĩa với việc bạn sử dụng bán cầu não phải để xử lý ngôn ngữ, trong khi động vật và hầu hết con người sử dụng bán cầu não trái (Corballis, 2003). Việc sử dụng quá mức bán cầu não phải có liên quan đến sự bất ổn về tinh thần (Hecht, 2005). Vì vậy, thuận tay trái đồng nghĩa có gì đó sai sai trong quá trình phát triển hoặc trong di truyền.
4. Đưa Mọi Thứ Đi Xa Hơn
Trước đó, tôi đã đề cập đến khái niệm đôi mắt đờ đẫn và lần đầu tiên được trải nghiệm khi còn là sinh viên đại học, trong một cuộc thảo luận sôi nổi với một thành viên của Liên Minh Cơ Đốc Giáo Chính Thống của Đại học Durham. Không có gì đáng ngạc nhiên (xét đến mối quan hệ tích cực giữa tôn giáo và GFP), cuối cùng tôi đã kết bạn với nhiều bạn nữ theo đạo Thiên Chúa. Đặc biệt, tôi có nhiều bạn nữ theo đạo Chúa.
Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, khi nói đến bạn bè khác giới, nam giới có xu hướng thấy bạn nữ của mình hấp dẫn về thể chất. Ngược lại, bạn nữ chủ yếu bị thu hút bởi các khía cạnh tâm lý của bạn nam: tính cách anh chàng là điều mà cô thấy hấp dẫn nhất (Bleske-Rechek và cộng sự, 2016). Điều này hoàn toàn phù hợp với phát hiện rộng hơn rằng nam giới không có gì để mất khi cơ hội “vui vẻ” đến. Họ có thể lăng nhăng và giao cấu với càng nhiều phụ nữ khỏe mạnh (và do đó ưa nhìn) càng tốt. Vì vậy, phái mạnh tiến hóa để tập trung vào sự hấp dẫn thể chất trong việc tìm kiếm bạn đời, mặc dù tính cách cô nàng có phần liên quan. Phụ nữ được tiến hóa để đánh giá cao các đặc điểm tâm lý của đàn ông hơn là thể chất (Buss, 1989). Thế nên, động lực của tình bạn khác giới rất giống với động lực của các mối quan hệ tình dục: những người bạn khác giới, có thể nói là “thích nhau, nhưng chưa đủ – like each other but no quite enough”. Bleske và Buss (2000) phát hiện ra rằng người bạn nữ coi mình là người nhận được sự bảo vệ và đầu tư về thể chất từ bạn nam (điều mà bạn nam coi là cái giá phải trả) trong khi người nam có được bạn tình tiềm năng (điều bạn nữ coi là cái giá phải trả). Cả hai giới đều có được ai đó dễ chịu và đáng tin cậy (Lewis và cộng sự, 2011). Điều thú vị là nam giới có nhiều khả năng vẫn coi mối quan hệ đơn thuần là ‘tình bạn’ một khi nó đã chuyển sang tình dục, ngụ ý một phần động cơ là tình dục không có cam kết – một ‘người bạn có lợi – Friend With Benefit’ (Bleske & Buss, 2000).
Dù sao đi nữa, một điều đáng chú ý về những cô gái Cơ Đốc ở trường đại học là họ rất ưa nhìn. Thật vậy, những người bạn nam ‘không theo đạo Thiên Chúa’ của tôi cũng nhận xét như thế. Điều này khiến tôi suy nghĩ: Bạn có thể xác định được người nào đó có theo Đạo hay không bằng cách nhìn vào diện mạo ?
Tôn giáo là một “hội chứng các đặc điểm” và rất hữu ích khi xác định được ai đó liệu có theo tôn giáo để tìm ra những người tử tế và đáng tin cậy, bất kể những người như Richard Dawkins có nói gì đi nữa. Những người theo tôn giáo thường có ý thức tương đối mạnh mẽ về danh tính, bản sắc, nghĩa là có thể xác định họ từ các dấu chỉ tôn giáo như các Kitô hữu đeo thánh giá, đặc biệt khi kết hợp với trang phục tương đối khiêm tốn và mức độ trang điểm thấp ở phụ nữ (Dutton, 2008 và Davies, 2002). Tôn giáo có liên quan đến GFP cao (Dunkel và cộng sự, 2015) và như chúng ta đã thấy, GFP có liên quan tích cực đến sức hấp dẫn về thể chất (Dunkel và cộng sự, 2016). Điều này có nghĩa là, nói chung, những người theo tôn giáo, so với những người vô thần, dễ chịu hơn, siêng năng hơn, hướng ngoại hơn và ổn định hơn về mặt tinh thần. Ít nhất là trong các tình huống hằng ngày, đồng hành với họ thì thích hơn. Và chúng ta có thể phần nào nhận ra họ qua diện mạo.
Một đánh giá tài liệu có hệ thống của Dutton và cộng sự (2017) đã lập luận rằng cho đến Cách Mạng Công nghiệp, chúng ta đã tiến hóa để chấp nhận một hình thức tôn giáo rất cụ thể: niềm tin vào một vị thần đạo đức và sự thờ phượng tập thể vị thần này. Sự mộ đạo có xu hướng tương quan ở mức 0,4 với di truyền. Nó được chọn lọc riêng theo từng cá nhân vì tác dụng làm giảm căng thẳng và khiến mọi người trở nên đạo đức hơn, do đó ít có khả năng bị khử bởi băng nhóm. Nó đã được chọn lọc theo giới tính vì là dấu chỉ GFP cao và “chính sách bảo hiểm” chống lại việc bị cắm sừng và quất ngựa truy phong, chơi xong dong buồm. Và nó đã được chọn lọc theo nhóm vì nó dự đoán hành vi vị chủng (đánh giá các dân tộc và nền văn hóa khác theo tiêu chuẩn của nền văn hóa của mình) và, trong các mô hình nghiên cứu, các nhóm vị chủng hơn luôn chiếm ưu thế. Do đó, cho đến Cách Mạng Công nghiệp, tính tôn giáo đã được chọn lọc mạnh mẽ và nó là một loại cụ thể: niềm tin vào các vị thần đạo đức cùng với sự thờ phượng tập thể.
Cuộc Cách Mạng Công Nghiệp từ từ làm suy yếu những thứ được chọn lọc. Nó mang lại thuốc men, thực phẩm rẻ, vệ sinh và điều kiện nói chung là tốt hơn. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em đã giảm từ 40% vào năm 1800 xuống còn khoảng 10% vào cuối thế kỷ 19 và hiện nay chỉ còn 1%. Trước cuộc Cách Mạng Công nghiệp, những người sinh ra với gen đột biến, dẫn đến sự bất thường về tinh thần và thể chất, đã chết trẻ trước khi họ có thể truyền lại gen của mình. Việc này đã diễn ra ngày càng ít đi trong nhiều thế hệ (Woodley of Menie và cộng sự, 2017). Do đó, “tải lượng đột biến – mutational load” đã tăng cao và ngày càng có nhiều người, vì các lý do liên quan đến di truyền, suy nghĩ theo những cách mà trước đây được xem là không có tính thích nghi. Chúng bắt đầu gây ảnh hưởng, phá hoại các cấu trúc truyền thống của xã hội đến mức ngay cả những người không mang gen đột biến cũng bắt đầu suy nghĩ theo những lối lệch lạc này. Dutton và cộng sự (2017) đã chỉ ra, theo mô hình này, rằng những lối suy nghĩ lệch khỏi chuẩn mực tại thời điểm công nghiệp hóa (chẳng hạn như chủ nghĩa vô thần hoặc niềm tin vào điều huyền bí nhưng không tin vào thần) có liên quan đến các dấu hiệu của đột biến. Những người vô thần có nhiều khả năng thuận tay trái, tự kỷ, đồng tính luyến ái hoặc chuyển đổi giới tính và có sức khỏe thể chất và tinh thần kém. Những tín đồ huyền bí (paranormal believers) cho thấy mức độ tâm thần phân liệt cao và sự xấu xí về thể chất. (ND : Những tín đồ huyền bí này bao gồm cả các em gái tin vào “năng lượng vũ trụ”, “năng lượng tâm thức”)
Tuy nhiên, có nhiều mối liên quan khác, rõ ràng nhất là tình trạng da. Rule và cộng sự. (2010) đã chỉ ra rằng người Mỹ có thể phân biệt chính xác những người theo đạo Mormon nhờ cái gọi là “hào quang của đạo Mormon” : làn da của họ trông khỏe mạnh hơn. Không rõ là do họ kiêng rượu, thuốc lá và cà phê hay do di truyền. Nhưng có lẽ “hào quang Mormon” này có một phần nguồn gốc di truyền, với chứng cứ rõ ràng trên các mẫu học sinh (trẻ).
Và những tín đồ đạo Mormon cũng có làn da khỏe mạnh như vậy, đặc biệt là phái nữ, những người ít trang điểm hơn phụ nữ vô thần. Tôi từng có một sinh viên từ một nhóm theo trào lưu chính thống ở Phần Lan tên là Laestadians. Cô ấy không trang điểm, có làn da hoàn hảo và nói tiếng Anh tương đối kém so với độ tuổi (22) và trình độ học vấn. Từ thông tin này, tôi đoán chính xác rằng cô ấy là người Laestadian. Họ nói không với rượu, trang điểm và truyền hình (do đó tiếng Anh kém).
Ngoài ra, có bằng chứng cho thấy điều này có thể áp dụng cho người theo cánh tả (left-wing peope) hay “những người theo chủ nghĩa tự do (liberals)”. Người ta nhận thấy rằng cử tri Đảng Cộng Hòa có ngoại hình hấp dẫn hơn cử tri Đảng Dân Chủ (Peterson & Palmer, 2017 ). Berggren và cộng sự. (2017) đã phát hiện ra rằng ở Châu Âu, Hoa Kỳ và Úc, mọi người đánh giá các chính trị gia ‘cánh hữu’ hấp dẫn hơn về thể chất so với các chính trị gia ‘cánh tả’. Các tác giả giải thích: “Các chính trị gia cánh Hữu ở Mỹ, Úc và Châu Âu trông đẹp hơn. Lời giải thích của chúng tôi là những người xinh đẹp kiếm được nhiều tiền hơn, điều này khiến họ ít có xu hướng ủng hộ sự tái phân phối (redistribution) hơn”. Vấn đề với lập luận này là tập trung quá nhiều vào việc trở thành một chính trị gia ‘cánh hữu’ so với không ủng hộ kinh tế chủ nghĩa xã hội. Sự đồng thuận hiện nay trong tâm lý học là cần có hai khía cạnh rộng lớn để mô tả thái độ chính trị xã hội (Duckitt và cộng sự 2002). Một trong số đó là ‘chống lại sự thay đổi’ hoặc ‘chủ nghĩa truyền thống – traditionalism’ và thứ còn lại là ‘chủ nghĩa chống chủ nghĩa quân bình – anti-egalitarianism’ (ND: chủ nghĩa chống lại điều rằng tất cả mọi người đều bình đẳng và xứng đáng được hưởng đều như nhau) hay là biện minh cho sự bất bình đẳng. Bergman và cộng sự không giải thích được tại sao các chính trị gia ưa nhìn lại có xu hướng theo chủ nghĩa truyền thống.
Một cách giải thích khác đơn giản hơn cho ý của Berggren và cộng sự, đó là chủ nghĩa quân bình vốn đặt câu hỏi về truyền thống tôn giáo và thúc đẩy Chủ nghĩa Đa Văn Hóa (Multi-Culturism, tức là các ý tưởng cánh tả) có thể sẽ gặp phải sự kinh hoàng của những người dân sống trong điều kiện khắc nghiệt của Chọn Lọc Tự Nhiên. Những quần thể có chủ nghĩa vị chủng thấp đến mức tán thành Chủ Nghĩa Đa Văn Hóa và từ chối tôn giáo lẫn văn hóa dân tộc đơn giản sẽ bay màu. (ND: Thiếu tôn giáo thì đạo đức dần đi xuống. Môi trường sống khắc nghiệt, nguồn lực đã ít còn phải chia đều cho mấy đứa kêu gào đòi hỏi quyền lợi thì sớm toang)
Do đó, việc tán thành các giáo điều cánh tả sẽ phản ánh một phần các gen đột biến, giống như việc tán thành chủ nghĩa vô thần. Tải lượng đột biến tăng cao, liên quan đến những người cánh tả, sẽ được phản ánh trên cơ thể cũng như bộ não của họ
. Theo đó, sự bất đối xứng dao động cao hơn trên khuôn mặt họ, thứ phản ánh đột biến, và đây thực sự là trường hợp diễn ra. Ngoài ra, có một mức độ đáng kể mà ‘tính tôn giáo’ liên quan đến việc trở thành ‘cánh hữu’ trong các xã hội công nghiệp. Thật vậy, Thang Đo Độc Đoán (Right Wing Authoritarian Scale) của Cánh hữu (RWA) và Thang đo Chủ nghĩa Chính Thống (Fundamentalism Scale) đã được chứng minh là có mối tương quan đáng kể ở mức 0,75 (Laythe và cộng sự, 2001). Điều này càng chứng tỏ rằng Chủ Nghĩa Cánh Tả, trong đó có chủ nghĩa vô thần, là sự phản ánh tính đột biến cao. Trong những điều kiện lựa chọn khắc nghiệt, những người cánh tả hiện đại, giống như những người vô thần, sẽ chết trước khi họ có thể sinh sản hoặc sẽ không bao giờ được sinh ra.