Chương 2: Thân thể

Beach Body

‘The millere was a stout carl for the nones;

 Ful byg he was of brawn, and eek of bones.

That proved wel, for over al ther he cam,

At wrastlynge he wolde have alwey the ram.’

(miêu tả một anh chàng vạm vỡ, đánh bại được cả con cừu đực)
The Miller in the Prologue of Canterbury Tales.

1.   Kiểu Cơ Thể Và Tính Cách

Kiểu cơ thể có thể là một chỉ báo rõ ràng về loại tính cách bạn có. Trong sinh lý học, có ba loại cơ thể. Những kiểu hình cơ thể chung (somatotypes) là các trường hợp cực đoan khi các đặc điểm khác nhau tương quan theo một hướng cụ thể. Do đó, việc phân biệt các loại cơ thể này rất hữu ích để đưa ra các dự đoán, đặc biệt là về khả năng chơi thể thao (Dutton & Lynn, 2015). Các tính năng của mỗi loại được quyết định phần lớn bởi di truyền. Những somatotype này là:

1. Endomorph (Béo). Hình dạng cơ thể tròn trịa (chắc nịch, tương đối ngắn) được đặc trưng bởi các chi tương đối ngắn, thân lớn và mỡ ở vùng bụng và phần dưới cơ thể. Cổ ngắn, vai hẹp, ngực nở, hông rộng, cơ bắp kém phát triển nhưng lại tăng cơ bắp dễ dàng. Kiểu cơ thể này phổ biến ở các vận động viên chơi các môn trên sân như đi bộ, nhảy, chạy, chạy nước rút, ném búa. 

2. Ectomorph (Mỏng). Cao, gầy, cơ thể thuôn dài, tứ chi dài. Thân trên ngắn. Ngực và vai hẹp. Không nhiều cơ bắp. Kiểu cơ thể này thường gặp ở những người chạy đường dài.

3. Mesomorph (Cơ bắp). Đầu vuông, to; ngực vạm vỡ, eo hẹp và vai rộng; tim to; cánh tay và chân vạm vỡ; và lượng mỡ cơ thể tối thiểu. Thân ngắn và các chi dài. Kiểu cơ thể này nổi bật ở các cầu thủ bóng đá và vận động viên chạy nước rút.

Những khác biệt này được ghi nhận bằng ba số (1-1-1) theo thứ tự endomorph, mesomorph và ectomorph. Số càng cao, cơ thể càng cao trên phổ đã cho. Nói chung, các số nằm trong khoảng từ một đến bảy. Trong các phân loại này, có các nhánh nhỏ để phản ánh cách mọi người kết hợp các khía cạnh của ba loại thiết yếu, chẳng hạn như có lượng mỡ cơ thể tương đối cao kết hợp với đôi chân tương đối dài.

Nhà tâm lý học người Mỹ William Sheldon (1898-1977) (Sheldon, 1940) ban đầu đã phát triển cách phân loại cơ thể này. Ông đã cố gắng liên kết kiểu cơ thể với tính cách và trí thông minh. Ở nhiều khía cạnh, cách phân loại của ông tương tự như cách phân loại của nhà tâm lý học người Đức Ernst Kretschmer (1888-1964) (Kretschmer, 1931). Kretschmer phân biệt giữa Leptosomatic (mảnh mai), Athletic (thể thao) và Pyknic (béo). Ông liên kết mỗi loại này với những đặc điểm tính cách nhất định, gợi ý rằng pyknic dễ bị trầm cảm và thích giao du, leptosomatic dễ bị tâm thần phân liệt trong khi athletic ít bị bệnh tâm thần nhất, nhưng khi dính chưởng thì đó sẽ là tâm thần phân liệt.

Sheldon đã phát triển xa hơn bằng cách hình thành ba loại tính cách thiết yếu gần như song song với Hướng Ngoại, Tận Tâm thấp và Tận Tâm/Loạn Thần Kinh cao. Ông so sánh tương quan giữa điểm số somatotype và điểm số tính cách và phát hiện ra những người béo Hướng Ngoại nhất, những người gầy Tận Tâm và Loạn Thần Kinh nhất, và những người cơ bắp ít Tận Tâm nhất (=Bốc Đồng nhất). Tất nhiên, nghiên cứu của Sheldon đã bị chỉ trích. Nhưng chúng ta sẽ sớm thấy rằng kiểu cơ thể dường như phản ánh phần nào sự khác biệt về mức testosterone, qua đó ảnh hưởng đến tính cách, gần đúng theo mô hình của Sheldon dự đoán.

2.   Tâm Lý Người Béo Người Gầy

Tại sao ‘béo’ là một vấn đề giai cấp xã hội? Trong xã hội phương Tây hiện đại, béo phì có liên quan rất nhiều đến nghèo đói. Câu trả lời không chỉ là nghèo đói khiến bạn béo – bởi vì những thực phẩm rẻ nhất hiện nay là kém lành mạnh nhất – mà những đặc điểm, thói quen khiến bạn béo cũng đẩy bạn về phía nhóm người có tình trạng kinh tế xã hội thấp (Socialeconomic Status – SES)

Đặc biệt, SES thấp được dự đoán là do trí thông minh và ý thức kém (Jensen, 1998 và Nettle, 2007). Ngoài ra, có một số bằng chứng cho thấy những người có mức độ Dễ Chịu cao hơn (Conard, 2006) hoặc những người có mức độ Loạn Thần Kinh tương đối cao có xu hướng học tập tốt hơn ở đại học (McKenzie và cộng sự, 2000). Béo được dự đoán bởi nhiều đặc điểm tương tự. Người có trí thông minh thấp được dự đoán là béo (Kanazawa, 2014). Điều này là do những người kém thông minh có mức độ ưu tiên thời gian (time preference) thấp: họ thà nhận phần thưởng nhỏ hơn nhưng ngay lập tức hơn là phần thưởng dài hạn nhưng lớn hơn (Jensen, 1998). Họ ít có khả năng từ bỏ lạc thú trước mắt khi ăn kem, để tương lai không bị thừa cân và tiểu đường. Ngoài ra, họ có thể kém hiểu biết về ăn uống khoa học và những gì tạo nên thực phẩm lành mạnh hoặc khẩu phần ăn hợp lý. Mức độ Tận Tâm thấp cũng dự đoán bệnh béo phì vì bản chất của mức độ Tận Tâm thấp là khả năng kiểm soát sự Ngẫu Hứng, Bốc Đồng kém (Nettle, 2007). Những người có độ Tận Tâm thấp đơn giản là không thể tự giúp mình. Họ sẽ luôn ăn thêm lát thịt xông khói; nhai luôn cái bánh mà họ biết là không nên ăn. Và kế đến là Hướng Ngoại. Người hướng ngoại đơn giản tận hưởng mọi thứ tích cực hơn, và điều này bao gồm cả đồ ăn ngon (và do đó không tốt cho sức khỏe) (Nettle, 2007).

Theo đó, nếu ai đó bị béo phì thì có thể suy ra rằng họ có trí thông minh thấp, tính Tận Tâm thấp (Ngẫu Hứng, Bốc Đồng cao) và tính Hướng Ngoại cao. Nếu họ rõ ràng thông minh – chẳng hạn, thông qua cách họ dùng từ vựng khi giao tiếp – thì béo phì có thể là một chức năng của tính cách họ. Nếu họ không đặc biệt thân thiện hoặc thích giao du thì rất có thể do khả năng kiểm soát Bốc Đồng kém. Theo đó, người ‘mảnh mai’ hoặc người duy trì mức cân nặng khỏe mạnh sẽ có mức độ Tận Tâm tương đối cao, mức độ Hướng Ngoại thấp và trí thông minh tương đối cao.

ND : Mỡ bụng có khả năng tạo ra enzyme Aromatase, chuyển hóa Testosterone trong cơ thể nam giới thành nội tiết tố nữ Estrogen. Do đó, người càng càng có nhiều mỡ bụng thì càng có nhiều Estrogen. Mà Estrogen lại liên quan đến độ ham muốn tình dục cao (dù nó làm khả năng giường chiếu kém), nên có thể kết luận rằng người mập béo bệnh hoạn, dâm tặc có nồng độ Estrogen trong người cao. Hơn nữa, estrogen cao làm cũng làm nam giới dễ nổi đóa, cảm xúc, tính tình như đàn bà.
 

Đối với những người gầy không lành mạnh, hoặc cân nặng dao động dữ dội, có nhiều bằng chứng cho thấy họ mắc chứng Loạn Thần Kinh cao (Cervera, 2003). Họ không ổn định về tinh thần, dẫn đến ảo tưởng về hình ảnh cơ thể, giá trị bản thân cực kỳ thấp, trầm cảm và lo lắng. Phụ nữ có mức độ Loạn Thần Kinh cao hơn nam giới (Soto và cộng sự, 2011) và có bằng chứng chắc chắn rằng họ được tiến hóa để quan tâm đến ngoại hình của mình hơn nam giới. Đàn ông có xu hướng chủ yếu lựa chọn đối tác nơi phụ nữ khỏe mạnh và mắn đẻ. Họ không có gì để mất khi gặp gỡ và tò tí te, vì vậy chiến lược phát triển của họ là giã gạo với càng nhiều phụ nữ càng tốt và đặc biệt với các em gái có khả năng sinh sản và khỏe mạnh, có khả năng sinh ra những đứa con khỏe khoắn. Theo đó, họ bị thu hút bởi những dấu chỉ của tuổi trẻ và đơn giản là những bé mi-nơ ưa nhìn bởi vì, như chúng ta sẽ thấy sau, điều này có liên quan đến sức khỏe di truyền. Mặc dù những yếu tố này tất nhiên là phù hợp với phụ nữ, nhưng họ có nhiều thứ để mất hơn từ cuộc giã gạo (nguy cơ dính bầu) và do đó, điều này có ý nghĩa – hoặc có ý nghĩa trong lịch sử tiến hóa – họ bị thu hút bởi những người đàn ông có khả năng và sẽ đầu tư vào đứa trẻ và phụ nữ. Do đó, nữ giới đã tiến hóa để quan tâm nhiều hơn đến tình trạng kinh tế xã hội của nam giới hoặc tiềm năng đạt được điều đó của anh ta, và bằng chứng về tính cách hợp tác, ủng hộ xã hội và trí thông minh, vì những điều này có thể ngụ ý rằng gã sẽ chung thủy và là người chu cấp tốt ( xem Buss, 1989). Đây là lý do tại sao những người đàn ông hiện đại ‘khệnh khạng’ bằng cách mặc quần áo đắt tiền và lái những chiếc xe sang. Còn những phụ nữ theo chiến lược r cũng sẽ bị thu hút bởi những người đàn ông có khả năng đánh nhau giỏi, đàn ông vạm vỡ và cao lớn (Buss, 1989). Tuy nhiên, nói chung, phụ nữ đã tiến hóa để quan tâm nhiều hơn đến ngoại hình của chính họ – vì đây là điều mà đàn ông sẽ lựa chọn – và do đó, họ dễ bị rối loạn ăn uống. Ví dụ cuối cùng về động lực tiến hóa này có thể thấy ở một người như Donald Trump: người đàn ông có địa vị rất cao, lấy được người phụ nữ rất ưa nhìn; một người vợ xinh đẹp trẻ hơn ông ta rất nhiều.

3.   Người Cơ Bắp – Kẻ Mảnh Mai

Quay trở lại lý thuyết của Sheldon, nó thực sự khá phù hợp với những gì chúng ta biết về testosterone. Nếu đơn giản hóa vấn đề này, thì cơ thể nam giới khuôn mẫu sẽ mang tính cơ bắp hơn trong khi cơ thể phụ nữ dễ tích mỡ. So với nam giới, phụ nữ cùng độ tuổi có hông rộng hơn, tay chân ngắn hơn và ít cơ bắp hơn. Những điều này phản ánh mức độ thấp hơn của nội tiết tố nam testosterone trong cơ thể nữ. Tất nhiên, có nhiều biến thể khác nhau trong giới tính – có phụ nữ nam tính và đàn ông nữ tính – nhưng nói chung, sự khác biệt cơ bản này tồn tại.

Testosterone là một trong những yếu tố khiến đàn ông trông khác với phụ nữ (Chang, 2002). Tuy nhiên, nhiều testosterone hơn có ý nghĩa nhiều hơn là một cơ thể cơ bắp. Những người đàn ông có lượng testosterone cao cũng có xu hướng thấp hơn những người có lượng T thấp. Nồng độ testosterone cao ở độ tuổi tương đối sớm đã được chứng minh là làm giảm tầm vóc (Nieschlag & Behre, 2013, p.323). Điều này có lẽ là do – theo Mô hình Lịch Sử Cuộc Sống mà chúng ta đã xem xét trong chương trước – năng lượng đã được đưa vào các yếu tố liên quan đến sinh sản ngắn hạn, chẳng hạn như phát triển cơ bắp và một cơ thể hấp dẫn giới tính. Do đó, năng lượng bị hướng ra khỏi sự tăng trưởng. Những người theo chiến lược r lớn lên nhanh chóng và cuối cùng thấp hơn người theo chiến lược K, vốn bắt đầu dậy thì và ngừng phát triển ở độ tuổi muộn hơn. Testosterone có liên quan đến khả năng kiểm soát sự Bốc Đồng, Ngẫu Hứng thấp và mức độ thấu cảm thấp (Mazur & Booth, 1998). Vì vậy, ‘người đàn ông cơ bắp’ điển hình – thấp bé và cơ bắp – sẽ có xu hướng hung hăng và ích kỷ. Và điều này có thể được phân biệt đơn giản từ bản chất của cơ thể anh ta.

Nói rộng ra, nam giới có lượng testosterone thấp – cao hơn và có thân hình tương đối nữ tính – có nhiều khả năng hợp tác, tốt bụng và thân thiện hơn. Anh ta sẽ không giúp được gì nhiều cho bạn nếu bạn đánh nhau. Tuy nhiên, do khả năng kiểm soát Bốc Đồng và sự Thấu Cảm cao hơn, anh ta ít có khả năng lao vào đánh nhau ngay từ đầu và sẽ giỏi hơn trong việc đàm phán tìm cách thoát khỏi cuộc chiến mà bạn bị dây vào. Tương tự, phụ nữ có cơ thể nam tính hơn thường có lượng testosterone cao hơn và do đó hung hăng hơn và ít hợp tác hơn so với phụ nữ nữ tính điển hình. Họ cũng sẽ cạnh tranh hơn để giành lấy địa vị, một tác dụng phụ khác của testosterone.

Người có vẻ ngoài nam tính hơn sẽ có mức độ mắc chứng tự kỷ cao hơn. Chứng tự kỷ chức năng cao (hay Asperger) được đặc trưng bởi khả năng hệ thống hóa rất mạnh (tạo và vận hành hệ thống) nhưng đồng cảm rất yếu. Người tự kỷ không có kỹ năng xã hội, bị ám ảnh bởi chi tiết và ít quan tâm đến người khác. Những đặc điểm này có liên quan đến testosterone cao. Trẻ tự kỷ, khi còn là bào thai, phải tiếp xúc với lượng steroid tăng cao, bao gồm cả testosterone, được chứng minh bằng các xét nghiệm nước ối (Baron-Cohen và cộng sự, 2015). Dawson và các đồng nghiệp (2007) đã chỉ ra rằng bệnh tự kỷ có liên quan đến một dạng thông minh khác biệt. Họ đạt điểm cao trong bài kiểm tra Raven (bài kiểm tra hệ thống hóa mạnh mẽ) so với các bài test IQ khái quát, như kiểm tra từ vựng. Họ đạt điểm trung bình cao hơn 30% và trong một số trường hợp đến 70% trên Raven so với kết quả trên Wechsler, một bài kiểm tra rộng hơn.

Vì vậy, chúng tôi cho rằng những người có vẻ ngoài nam tính không chỉ hung hăng và ít vị tha hơn mà còn ám ảnh và vụng về hơn trong giao tiếp xã hội. Tất nhiên, nam giới có hàm lượng testosterone cao thường rất quan tâm đến các chủ đề như ô tô và thể thao, thường đến mức bị ám ảnh. Tôi có một người bạn học trên Facebook (một người hoàn toàn thân thiện), người thực sự có lượng testosterone cao điển hình khi xét về ngoại hình: khuôn mặt rộng, hàm bạnh (chúng ta sẽ thảo luận về khuôn mặt trong chương tiếp theo) và cơ bắp. Trong 9 năm làm bạn trên Facebook, mọi thứ gã đăng đều liên quan đến đội bóng yêu thích ngoại trừ những cập nhật không thường xuyên về gia đình hoặc giai thoại về những người nổi tiếng mà gã theo dõi.

4.   Testosterone Và Trí Thông Minh

Các dấu chỉ testosterone không chỉ giúp bạn hiểu sâu hơn về tính cách mà còn suy luận ra trí thông minh. Chúng không thể hiện nhiều về ‘trí thông minh chung’ nhưng cho bạn biết điều gì đó về các phân loại IQ. Như đã thấy, nếu ai đó ghi điểm cao ở một loại trí thông minh thì có kết quả tốt ở các loại còn lại. Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn giữa các cá nhân. Einstein có trí thông minh toán học tuyệt vời đến mức ông đã chứng minh cho định lý Pythagoras khi mới 12 tuổi nhưng trí thông minh ngôn ngữ của ông tệ đến nỗi làm ông trượt kỳ thi đầu vào vào Học viện Công nghệ Zurich (Dutton & Charlton, 2015). Tương tự, nam giới có trí thông minh toán học và không gian tốt hơn nữ giới và một phần là do testosterone. Nếu được tiếp xúc với nồng độ androgen (hormone nam) đặc biệt cao trong tử cung, khi trưởng thành, phụ nữ sẽ đạt điểm cao hơn đáng kể trong các bài kiểm tra tư duy không gian so với đối chứng (Resnick và cộng sự, 1986) trong khi có bằng chứng cho thấy mức độ testosterone ở nam giới khỏe mạnh có liên quan tích cực đến khả năng tư duy không gian (Janowsky và cộng sự cộng sự, 1994). Tăng sản tuyến thượng thận là tình trạng tuyến thượng thận lớn hơn bình thường và cơ thể thiếu một loại enzyme khiến tuyến này tiết ra cortisol. Kết quả là sự gia tăng testosterone khiến những chàng trai, những cô gái cực kỳ nam tính. Những cô gái này thường có trí thông minh không gian cao (Resnick và cộng sự, 1986).

Vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng một người đàn ông có lượng testosterone cao sẽ giỏi toán và không gian hơn là ngôn ngữ. Tương tự như vậy, một phụ nữ có vẻ ngoài nam tính sẽ làm tốt hơn những tác vụ cần toán và tư duy không gian, ít nhất là so với những phụ nữ khác. Tôi đã tham dự một hội nghị tại Đại học College London vào năm 2015. Trường đại học cố thúc đẩy ý tưởng rằng phụ nữ có đóng góp quan trọng cho khoa học. Bức tường của nhà ăn sinh viên được trang trí bằng những bức ảnh chụp các nữ khoa học gia, tương đối lỗi lạc, những người (nếu tôi nhớ không lầm) đều đang làm việc tại trường đại học đó. Điều đáng chú ý đối với tôi và các đồng nghiệp trong hội nghị, là khuôn mặt nam tính của những nữ khoa học gia này. Thật là đáng chú ý nhưng không có gì bất ngờ.

5.   Da Và Tóc

Nội trong các chủng tộc, sắc tố da và tóc phản ánh một phần Testosterone. Testosterone cao có liên quan đến nồng độ melanin cao, do đó da và tóc sẫm màu hơn (Thornhill & Gangestad, 2008). Rushton và Templer (2012) phát hiện ra ở người và các phân loài động vật, sắc tố sẫm màu hơn có liên quan đến mức độ hung hăng và mức độ hoạt động tình dục cao hơn. Hơn nữa, họ phát hiện ra rằng ngay cả trong các chủng tộc loài người (chẳng hạn, khi so sánh anh chị em ruột), những anh chị em da sẫm màu hơn có xu hướng hung hăng và hoạt động tình dục nhiều hơn, cũng như kém thông minh hơn những anh chị em da sáng hơn. Phụ nữ có xu hướng thấy đàn ông da sẫm màu hấp dẫn hơn; đàn ông da sẫm màu có lượng testosterone cao hơn và do đó mặc nhiên là nam tính hơn và khả năng sinh sản (fertile) cao hơn (Thornhill & Gangestad, 2008). Đàn ông có xu hướng thấy phụ nữ có làn da sáng hơn hấp dẫn ở mọi nền văn hóa, một phần vì làn da sáng ám chỉ khả năng sinh sản ở phụ nữ (có lẽ vì da trở nên sáng hơn trong thời kỳ rụng trứng). Làn da sáng cũng hấp dẫn vì cho phép người khác cảm nhận rõ hơn các dấu hiệu của tuổi tác, một khía cạnh quan trọng đối với khả năng sinh sản, đặc biệt là ở phụ nữ. Ngoài ra, làn da sáng là dấu chỉ testosterone thấp nói chung. Nó là một phần của đặc điểm nữ tính. Ở mức độ mà phụ nữ tiến hóa để trở thành nữ tính (và nam giới tiến hóa thành nam tính), về bản chất, điều đó hàm ý rằng các gen họ mang là tốt, với rất ít đột biến (Little và cộng sự, 2011).

Phù hợp với điều này, Lewis (2012) đã cho 20 người đàn ông da trắng, da đen và Đông Á xem 300 bức ảnh trên Facebook của các sinh viên đại học trong độ tuổi từ 18 đến 30 thuộc ba chủng tộc này. Ông phát hiện ra rằng, trong số các sinh viên tại Đại học Cardiff, nam giới thuộc mọi chủng tộc thấy, về mặt thể chất, phụ nữ Đông Á hấp dẫn nhất, phụ nữ da đen kém hấp dẫn nhất và phụ nữ da trắng ở mức trung bình. Ngược lại, khi thí nghiệm được lặp lại với 300 bức ảnh chụp nam giới, 20 phụ nữ thuộc các chủng tộc này nhận thấy đàn ông da đen hấp dẫn nhất về thể chất, đàn ông Đông Á kém hấp dẫn nhất và người da trắng ở mức trung bình. Lewis cho rằng một lý do quan trọng là testosterone, thể hiện ở mức độ trung bình của nữ tính, nam tính và màu sắc.

Tất nhiên, điều này có nghĩa là khi so sánh những người cùng độ tuổi, chủng tộc và giới tính, ai có sắc tố sẫm màu hơn sẽ hung dữ hơn và ít vị tha hơn. Và điều này là do da và tóc sẫm màu hơn phần nào phản ánh mức độ testosterone cao hơn. Cũng cần lưu ý rằng có sự khác biệt về mức độ hấp dẫn của đàn ông và phụ nữ dựa trên loại mối quan hệ mà họ quan tâm, nhưng chúng ta sẽ chuyển sang vấn đề này sau.

6.   Ngực Và Bộ Phận Thu Hút Khác Trên Cơ Thể

Darwin đề xuất hai loại lựa chọn chính. Đầu tiên là chọn lọc cá thể, đề xuất rằng các sinh vật riêng lẻ thích nghi tốt nhất với hệ sinh thái của chúng có nhiều khả năng truyền lại gene hơn và vì vậy nếu một đột biến thích nghi xuất hiện thì nó sẽ được chọn lọc. Darwin cũng đề xuất ‘chọn lọc giới tính’. Đây là ý tưởng cho rằng, trong một loài, một số cá thể nhất định được coi là hấp dẫn hơn những cá thể khác vì chúng chứng tỏ sức khỏe di truyền tốt hơn. Mọi người muốn kết đôi với những cá thể khỏe mạnh này và xa lánh những người mà họ thấy không hấp dẫn. Ở nhiều loài động vật xã hội, con đực chiến đấu để giành quyền giao phối và dù sao thì con cái cũng muốn giao phối với những con đực giành chiến thắng trong các cuộc chiến này. Điều này là do, bằng cách giành chiến thắng trong các trận đấu, chúng chứng minh rằng mình có những gene tốt nhất, thứ sẽ được truyền lại cho con cháu.

Tuy nhiên, chiến đấu không phải là cách duy nhất để thể hiện phẩm chất di truyền. Ngoài ra, còn có “các bộ phận thu hút” nữa. Một ví dụ rõ ràng về ‘bộ phận thu hút’ là đuôi của con công, được nhấn mạnh bởi Geoffrey Miller (2000). Điều này có thể mang lại một số tác dụng với việc lựa chọn cá thể. Con công có thể khiến mình trông to lớn hơn trước những kẻ săn mồi bằng cách trưng ra một chiếc đuôi to lớn. Ngoài ra, đó cũng là một ‘chỉ số thể lực’ về nguồn gen tốt. Một con công có thể lực di truyền kém – và do đó có số lượng gen đột biến cao – sẽ phải đầu tư nhiều nguồn lực hơn để duy trì sự sống so với một con công có ít gen đột biến hơn. Vì vậy, nó không thể phát triển hoặc duy trì một cái đuôi ấn tượng. Đuôi của một con công xấu giống sẽ nhỏ hơn, xỉn màu hơn, ít họa tiết hơn và kém đối xứng. Điều này là do chúng ta được tiến hóa để trở nên đối xứng, vì vậy tính đối xứng cho thấy chúng ta không có gen đột biến nào gây ra sự bất đối xứng và chúng ta đủ lực để phát triển một kiểu hình khỏe mạnh khi đối mặt với bệnh tật hoặc thiếu lương thực (Miller, 2000), do đó ‘khuôn mặt đối xứng’ được coi là hấp dẫn trong tất cả các nền văn hóa: chúng chứng tỏ sức khỏe di truyền. Cái đuôi cũng là một điểm “khiếm khuyết” có chủ ý, vì nó làm con công chậm lại đáng kể. Như vậy, con công đang quảng cáo sự thật rằng gen của nó tuyệt vời đến mức nó có thể tự làm cho mình cồng kềnh, khiếm khuyết với cái đuôi khổng lồ này, mà vẫn còn dư tài nguyên để làm cho nó sặc sỡ và họa tiết công phu. Cũng giống như một người đàn ông công khai quyên góp tiền từ thiện và khi làm như vậy, anh ta nhấn mạnh mình thành công như thế nào. Rõ ràng anh ta có tiền để đốt.

Với những cân nhắc này trong tâm trí, cái đuôi sẽ cho công cái biết rất nhiều về sức khỏe của công đực và công cái sẽ (1) Chọn những con công đực có đuôi và (2) Chọn những con có đuôi lớn nhất và sáng nhất, sặc sỡ nhất. Miller lập luận rằng sự dị hình giới tính ở người (đàn ông và phụ nữ trông khác nhau) có thể được giải thích một phần bởi sự lựa chọn giới tính. Rõ ràng là nhân tướng học rất liên quan. Bộ não cực kỳ nhạy cảm với đột biến vì nó là một cơ quan cực kỳ phức tạp và 84% gen của chúng ta liên quan đến não (Woodley of Menie và cộng sự, 2017). Điều này có nghĩa là nếu bạn sở hữu “những bộ phận thu hút”, bạn càng có ít gen đột biến trong não.

Nam giới tiến hóa để bị thu hút bởi các đặc điểm sinh dục thứ cấp hấp dẫn ở nữ giới. Ví dụ, tỷ lệ eo-hông lý tưởng (WHR – Waist To Hip Ratio) được coi là hấp dẫn. WHR rất cao tương quan với các vấn đề sức khỏe và vô sinh trong khi WHR quá thấp có nghĩa là người phụ nữ đang bị đói ăn, điều này cũng tiềm tàng gây vô sinh (Davies, 2012, p.107). Như vậy, WHR tối ưu khoảng 0,7 trong các nền văn hóa châu Âu, được coi là hấp dẫn nhất: đó là một phụ nữ có đường cong vừa phải. Bộ ngực có kích thước đối xứng và xấp xỉ từ trung bình đến cao hơn trung bình một chút là hấp dẫn nhất (Havlicek và cộng sự, 2016). Điều này là do bộ ngực là một tín hiệu trung thực về sức khỏe di truyền. Sức khỏe di truyền kém sẽ biểu hiện ở bộ ngực và mông không đối xứng, quá khổ hoặc quá nhỏ và ngoài ra, bộ ngực có kích thước trung bình nhưng săn chắc dường như là dấu hiệu cho khả năng sinh sản tối ưu (Havlicek và cộng sự, 2016). Và nếu phụ nữ có tải lượng đột biến (mutational load) cao thì nhiều khả năng cô ấy mang các gen đột biến liên quan đến hoạt động của não, ngụ ý trí thông minh thấp và tinh thần bất ổn hơn. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng ngực và mông trở nên mờ nhạt khi so sánh với khuôn mặt, như là phương tiện đánh giá sức hấp dẫn của phụ nữ (Furnham & Swami, 2007). Có lẽ rất nhiều thông tin về sức khỏe, khả năng sinh sản và thậm chí cả tính cách có thể được suy ra từ khuôn mặt, vì vậy chúng ta được tiến hóa để đặc biệt quan tâm đến nó.

Những thứ thu hút ở nam giới là chiều cao (xem bên dưới), cơ bắp và do đó, việc thiếu hoàn toàn cơ bắp hoặc cực kỳ lùn có thể tố cáo khổ chủ mang gen xấu và do đó, tải trọng đột biến cao. Các “đồ chơi” khác của nam giới bao gồm những thứ chịu ảnh hưởng của testosterone, chẳng hạn như cằm và quai hàm nam tính và dương vật lớn hơn (Weinbauer và cộng sự, 2013, trang 54).

Tôi đã tìm thấy một tóm tắt nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa kích thước vật và tính cách (Steiner, 1980). Có hai nghiên cứu quan trọng, và chúng đều là các bài thuyết trình hội nghị chưa được công bố của nhà tâm lý học người Mỹ Nancy Hirshberg (1937-1979), người không may bị bắt khi còn rất trẻ, và các đồng nghiệp của bà. Trong những nghiên cứu này, 144 đối tượng là sinh viên nữ tại Đại học Illinois. Kích thước ngực lớn được phát hiện có mối tương quan tích cực đáng kể với việc ‘chưa được xã hội hóa đủ – undersocialized’ (nghĩa là chống đối xã hội), không đáng tin cậy, bốc đồng, ‘suy nghĩ nhiều – psychologically minded’ (nghĩa là hướng nội), linh hoạt và thích phiêu lưu. Vì vậy, ở một mức độ nào đó, ngực của phụ nữ càng lớn thì tính Tận Tâm càng thấp (đồng nghĩa tính Bốc Đồng, Ngẫu Hứng cao), tính Hướng ngoại càng cao và tính Dễ Đồng Ý càng thấp. Phụ nữ có mông to được cho là sống nội tâm, tự hạ thấp bản thân và mặc cảm tội lỗi cao. Nói cách khác, họ tương đối thấp ở khía cạnh Hướng ngoại và tương đối cao ở Loạn Thần Kinh. Một nghiên cứu khác được nhấn mạnh bởi Steiner (Wggins và cộng sự, 1968) liên quan đến 95 đối tượng nam giới, chỉ ra những người đàn ông thích bộ ngực nhỏ có xu hướng sùng đạo và trầm cảm, và những người đàn ông thích mông lớn thường có nề nếp, ngăn nắp (Ordered), phụ thuộc và hay tự trách mình.

Steiner (1980) quan sát hàm ý hấp dẫn này. Đàn ông thích ngực to có tâm lý giống phụ nữ sở hữu chúng, và đàn ông thích mông to cũng vậy. Điều này liên quan với chiến lược r-K mà chúng ta đã thảo luận. Theo Rushton (2000) LHS (Life History Strategy – Chiến lược vòng đời sinh tồn, sinh sản) của một người càng nhanh (thiên về r) thì các đặc điểm hấp dẫn giới tính thứ cấp của họ càng rõ rệt. Điều này là do trong bối cảnh chiến lược r, về cơ bản dựa trên ngoại hình, bạn đang cạnh tranh để giành lấy những đối tác tốt nhất và phải nhanh chóng đoạt được họ. Bộ ngực của bạn càng lớn, bạn càng nổi bật với sự khỏe mạnh và mắn đẻ, giống như đuôi công. Do đó, nam giới bị thu hút bởi bộ ngực lớn hơn cũng sẽ bị thu hút nhiều hơn bởi những phụ nữ có phẩm chất hình thể tốt hơn và do đó sẽ giúp anh ta truyền được nhiều gen hơn. Phụ nữ có bộ ngực lớn hơn sẽ quảng cáo tốt hơn khả năng sinh sản và sức khỏe di truyền của mình, điều tương đối quan trọng trong bối cảnh vòng đời ngắn, khó lường, sống nhanh chết lẹ của chiến lược r, trong đó các đặc điểm tâm lý của cô ấy ít quan trọng hơn.

Những người đàn ông theo chiến lược K sẽ ít quan tâm đến các đặc điểm hấp dẫn giới tính thứ cấp – vốn chỉ đơn giản là dấu hiệu của sức khỏe và (gián tiếp) khả năng sinh sản – và quan tâm nhiều hơn đến các đặc điểm tâm lý sẽ tạo ra một người mẹ tốt và một người vợ chung thủy, những cô gái đoan trang, không say nắng người khác và cắm sừng cho anh ta làm con tu hú. Vì vậy, sẽ ít xảy ra những cuộc “chạy đua vũ trang” lớn về các đặc điểm thu hút giới tính thứ cấp, do đó, phụ nữ sẽ có bộ ngực nhỏ hơn. Trong một bối cảnh như vậy, tất nhiên sẽ có sự khác biệt cá nhân. Tuy nhiên, bộ ngực lớn sẽ báo hiệu chiến lược sống và sinh sản nhanh hơn (kiểu r), trong đó một người được lập trình di truyền để “sống chỉ biết hôm nay, kệ cha ngày mai”. Bộ ngực nhỏ cho thấy người phụ nữ ít được lập trình để quảng cáo sự thu hút giới tính, nghĩa là họ có chiến lược sống dài hạn hơn. Vì vậy, sẽ hợp lý nếu một người đàn ông theo chiến lược K bị thu hút bởi những bộ ngực nhỏ hơn để có được một phụ nữ có chiến lược sống dài hạn hơn. Ngoài ra, chúng ta có thể thấy tại sao phụ nữ theo chiến lược K sẽ có bộ ngực nhỏ hơn. Những cô nàng như vậy được lập trình để đầu tư ít năng lượng hơn vào các bộ phận thu hút tính dục, nhiều hơn vào đầu óc, và đặc biệt là vào GFP (General Factor of Personality) cao.

Quay trở lại cuộc thảo luận trước đó về nữ tính, rõ ràng là những gì bạn thấy hấp dẫn thay đổi tùy theo chiến lược sinh sản, sinh tồn của bạn. Cụ thể, một khuôn mặt rất nữ tính sẽ hấp dẫn, đặc biệt trong mối quan hệ ngắn hạn, nơi tất cả những gì một người đàn ông muốn là tò te tí te và truyền lại gen của anh ta. Một đối tác khỏe mạnh và mắn đẻ là tất cả những gì cần thiết. Tuy nhiên, nếu anh ta quan tâm đến một mối quan hệ lâu dài đòi hỏi sự đầu tư từ phía mình, thì tính cách của người phụ nữ sẽ trở nên quan trọng hơn nhiều. Rốt cuộc, anh ta cần đảm bảo rằng đứa con sinh ra sẽ thực sự là của mình và người mẹ sẽ chăm sóc nó, nếu không thì nguồn lực của anh ta sẽ bị lãng phí. Anh ta có thể đánh đổi sự nữ tính để lấy cá tính. Và trong phạm vi mà việc trở nên cực kỳ nữ tính xét về các đặc điểm hấp dẫn giới tính thứ cấp có liên quan đến chiến lược r, thì có thể anh ta bắt đầu thấy những thứ đó kém hấp dẫn hơn. Ngoài ra, anh ta có thể đánh đổi các đặc điểm ‘gen tốt’ về thể chất (chẳng hạn như khuôn mặt rất nữ tính) để lấy nhân cách, ít nhất là trong một số giới hạn nhất định.

Điều này phù hợp với bằng chứng cho thấy đàn ông có lượng testosterone cao bị thu hút bởi những phụ nữ có khuôn mặt rất nữ tính. Thật vậy, một thí nghiệm đã chỉ ra rằng khi đàn ông tiếp xúc với gel testosterone, họ đánh giá các khuôn mặt nữ tính cao điểm hơn so với khi không có loại gel này. Ngoài ra, đàn ông thích phụ nữ có gương mặt nữ tính hơn trong các mối quan hệ ngắn hạn nhưng hiệu ứng này rõ rệt hơn khi họ tiếp xúc với gel testosterone. Đây là các phát hiện rất thú vị. Nó ngụ ý rằng testosterone làm cho đàn ông có xu hướng thích một chiến lược tình dục ngắn hạn hơn; đánh giá cao sự nữ tính. Nhưng nó cũng khiến họ lo lắng hơn về việc bị cắm sừng trong một mối quan hệ lâu dài; có lẽ bởi vì nó làm cho họ ít tin tưởng hơn. Những người đàn ông Tes cao, khi nói đến một mối quan hệ lâu dài, có nhiều khả năng đánh đổi sự nữ tính để lấy những đặc điểm khác (Bird và cộng sự, 2016). Không rõ tại sao lại như vậy. Một lời giải thích khả dĩ là con người đã tiến hóa để lo lắng sâu sắc về việc bị cắm sừng, nuôi của thằng khác và càng nam tính (T cao) thì họ càng lo lắng về điều này, khiến họ chuẩn bị sẵn sàng để ngăn ngừa. Vì vậy, nhìn chung, những người đàn ông có Tes cao không hứng thú với các mối quan hệ đầu tư cao, lâu dài. Nhưng trong trường hợp bất khả kháng, thì họ muốn có một “chính sách bảo hiểm mạnh mẽ” để chống lại việc bị cắm sừng. Đàn ông Tes thấp quan tâm nhiều hơn đến các mối quan hệ lâu dài. Nhưng Rushton (2000) lập luận rằng chiến lược K liên quan đến việc ‘chọn lọc nhóm’ nhiều hơn, không chỉ gia đình bạn mà còn liên quan đến nhóm di truyền lớn hơn mà bạn là một phần trong đó, đây thực sự là một loại gia đình di truyền mở rộng (genetic extended family) (xem Salter, 2007 ). Do đó, một người đàn ông Tes thấp sẽ chọn một người phụ nữ đáng tin cậy nhưng anh ta cũng có thể hạnh phúc hơn nhiều, chẳng hạn như khi nhận con nuôi. Phù hợp với điều này, người ta thấy rằng những người có địa vị xã hội thấp – như chúng ta đã thấy, có liên quan đến chiến lược sống ngắn hạn (kiểu r)– ít có khả năng nhận con nuôi hơn nhiều so với những người có địa vị xã hội cao (Nickman và cộng sự, 2005 ).

Các bộ phận quyến rũ trên cơ thể là một trường hợp mà việc so sánh chỉ có thể được thực hiện nội trong các chủng tộc. Ví dụ, phụ nữ Đông Bắc Á thường có ngực và mông tương đối phẳng. Một phần có thể là do phải thích nghi với cái lạnh. Môi trường khắc nghiệt đến mức người Đông Bắc Á phải tập trung cao độ vào việc sinh tồn, không đủ tài nguyên dinh dưỡng dành cho các cơ quan khác và hơn nữa, bất kỳ chỗ nào nhô ra cũng có nguy cơ bị tê cóng. Quy tắc Allen dự đoán rằng các loài từ vùng khí hậu lạnh hơn có các chi ngắn hơn giúp giữ nhiệt, và bộ ngực to sẽ như một chi lớn, gây thoát nhiều nhiệt. Hơn nữa, chất béo tích vào vùng bụng sẽ như một tấm chăn giữ ấm tự nhiên và do đó sẽ tốt hơn là tích vào mông. Ngoài ra, người Đông Bắc Á là chủng tộc theo chiến lược K cao nhất, vì vậy chúng tôi cho rằng họ sỡ hữu ít đặc điểm thu hút giới tính thứ cấp.

7.   Chiều Cao

Có sự khác biệt giữa các chủng tộc về chiều cao trung bình, một phần là do kiểu cơ thể chắc nịch hơn mang lại nhiều khả năng sống sót trong môi trường rất lạnh. Nhưng nội trong các chủng tộc, có một mối liên hệ rõ ràng giữa trí thông minh và chiều cao. Trung bình, bạn càng thông minh thì bạn càng cao, với hệ số tương quan khoảng 0,1 (mức khá yếu) (Silventoinen và cộng sự, 2006). Trong lịch sử, phần lớn điều này chỉ đơn giản là do giàu có. Những người thông minh hơn giàu có hơn và có chế độ ăn uống tốt hơn. Do đó, họ đạt chiều cao tối đa trong khi những người kém thông minh, kém sung túc hơn thì không. Một phần vì lý do này mà các vị vua như Vua Edward IV của Anh (1442-1483), cao 194 cm, hơn một người đàn ông trung bình thời bấy giờ gần 30cm (Ross, 1974, trang 10). Không có gì đáng ngạc nhiên, với cuộc Cách mạng Công nghiệp và cải thiện trong chế độ ăn uống, chiều cao trung bình bắt đầu tăng lên khi hầu hết mọi người đều đạt mức tối đa về kiểu hình. Ở Anh, chiều cao trung bình tăng dần cho đến những năm 1970 và đạt ngưỡng 177cm đối với nam giới, cao hơn một chút so với 173cm vào thời chúng ta còn săn bắn hái lượm với chế độ ăn uống đa dạng và lành mạnh bao gồm nhiều trái cây rau quả và các loại hạt (Winston, 2010, tr.91). Kể từ những năm 1970, chiều cao đã ổn định, ngụ ý rằng chúng ta đã đạt đến mức tối đa về kiểu hình (Cole, 2003). Chúng ta biết rằng sự gia tăng chiều cao bị ảnh hưởng bởi môi trường hơn là di truyền; cụ thể là chiều dài chân. Chiều dài chân chịu ảnh hưởng lớn từ môi trường (Cole, 2003, Hatton, 2013).

Chiều cao có mối tương quan di truyền với trí thông minh (Silventoinen và cộng sự, 2006), ngay cả khi bạn kiểm soát các yếu tố môi trường. Rất có thể là do chúng đã được xem xét và lựa chọn (xem ở trên) như một combo. Phụ nữ thích chọn những người đàn ông thông minh (vì trí thông minh dự đoán mang lại địa vị xã hội cao và phụ nữ đã lựa chọn cụ thể vì lý do này). Nhưng họ cũng lựa chọn những người đàn ông cao hơn, vì cho rằng đàn ông cao lớn có khả năng bảo vệ tốt hơn. Xu hướng lựa chọn đàn ông cao nhưng chưa rõ có thông minh hay không, đã dẫn đến hai đặc điểm “cao lớn” và “thông minh” được liên kết với nhau. Như vậy, trung bình thì những người cao hơn sẽ thông minh hơn những người thấp. Ở mức độ nhẹ hơn, đàn ông thích phụ nữ cao vì lùn tịt là dấu chỉ bộ gen kém, do đó không có khả năng phát triển chiều cao. Sức khỏe di truyền kém cũng sẽ liên quan đến trí thông minh thấp.

8.   Hình Xăm

Nghệ thuật cơ thể đáng được xem xét, vì nó có ý nghĩa xuyên suốt các nền văn hóa. Nói chung, nghệ thuật cơ thể – chẳng hạn như hình xăm – có thể nói lên rất nhiều điều về người đã in hằn các nét mực vĩnh viễn lên cơ thể họ. Tate và Shelton (2012) đã phát hiện ra rằng khi so sánh thì những người “dính tí mực” thường có độ Dễ Chịu và Tận Tâm thấp (=Bốc Đồng cao) hơn đáng kể so với người không xăm. Thật vậy, Heywood và cộng sự (2012), nghiên cứu trên nhóm hơn 8000 người, phát hiện rằng những người xăm mình có nhiều khả năng chấp nhận “rủi ro nghiêm trọng” hơn. Điều này sẽ phù hợp với chiến lược tồn tại và sinh sản ngắn hạn r và với tác dụng của các hình xăm. Chúng thu hút sự chú ý đến cơ thể, nhấn mạnh tính cá nhân hoặc tư cách thành viên của một nhóm tiểu văn hóa (subculture – một nhóm nhỏ trong một nhóm khác lớn hơn), thể hiện khả năng chịu đau và thu hút sự chú ý đến bản thân. Những đặc điểm này đều được liên kết với chiến lược r.

Vị trí và chủ đề của hình xăm làm cho điều này rõ ràng hơn. Hình xăm của nam giới thường ở cánh tay, bả vai, chân… vì thế, tạo sự săn chắc cho cơ bắp.

Các hình xăm của phụ nữ thường ở phần nhỏ trên lưng (còn được gọi là “slag tag” hoặc “tramp stamp”), phía trên ngực hoặc trên phần thịt lộ ra sau gáy. Điều này đang thu hút sự chú ý đến các bộ phận gợi tình và kích thích nam giới với những gì “đang được dâng tặng”. Nói chung, hình xăm có thể được coi là một khiếm khuyết có chủ ý (giống như đuôi con công) nhấn mạnh đến chất lượng di truyền: “Tôi vẫn hấp dẫn mặc dù đã tự cắt xẻo, làm hư bản thân, vì vậy hãy nghĩ xem gen của tôi phải tốt đến mức nào”. Nó cũng là một dạng bất đối xứng có chủ ý (hơi giống bệnh ngoài da), do đó thu hút sự chú ý đến cơ thể. Khi xăm, bạn phải chịu đựng đau đớn và thậm chí nguy cơ nhiễm độc máu, điều này phù hợp với việc hình xăm là một phương tiện quảng cáo chất lượng di truyền, một quan điểm được đưa ra bởi Lynn và Madeiros (2017, trang 267)


Chủ đề mà hình xăm thể hiện, dường như cũng ngụ ý chiến lược r. Ở nam giới, nó có xu hướng là hình ảnh của cái chết, chẳng hạn như đầu lâu và hình ảnh có tính tiểu văn hóa như biểu tượng dân tộc chủ nghĩa. Đây dường như là cách truyền đạt ý tưởng rằng họ là thành viên của một băng đảng và họ rất dũng cảm, không sợ chết. Ở phụ nữ, đó là nhiều kiểu biểu tượng ngoại đạo/ngoại quốc về khả năng mắn đẻ (chữ Trung Quốc chẳng hạn) như để biểu thị sự tò mò giống như con nít, hoặc những hình ảnh biểu thị thái độ trẻ con, kỳ quặc và do đó, đề cao sự trẻ trung và khả năng sinh sản. Chẳng hạn, tôi từng có một nữ sinh xăm hình Little My, cô bé nghịch ngợm trong The Moomins, trên bắp chân trái.

Điều này nhất quán với các kết quả thực nghiệm : đàn ông cho rằng phụ nữ có hình xăm thường lăng nhăng hơn (Gueguen, 2013). Thật vậy, có bằng chứng từ Ba Lan rằng những phụ nữ xăm mình hoạt động tình dục nhiều hơn một chút so với người không có (Nowosielski và cộng sự, 2012). Tuy nhiên, cần nói thêm rằng Swami và cộng sự (2012) phát hiện ra rằng những người có hình xăm có tính Hướng Ngoại cao hơn, nhưng không có sự khác biệt đáng kể nào khác trên thang Big 5. Cả nghiên cứu này và Tate và Shelton đều phát hiện ra rằng những người xăm mình có “nhu cầu muốn được độc nhất” lớn hơn. Điều này phù hợp với chiến lược ngắn hạn r.

ND: Các lý thuyết redpill về phụ nữ từ các Nghệ Sĩ Tán Gái lão làng cũng đã chỉ ra rằng những cô gái bị Daddy Issues, không có cha hoặc có người cha bạc nhược, cũng có xu hướng xăm mình, rượu chè, lăng nhăng, tự chủ kém.

Xem thêm một vid khác của Dutton: Tại sao ăn chay, xăm mình và tóc nhuộm màu không tự nhiên đều liên quan đến chứng trầm cảm.

Bài viết mới

Bài viết cùng chủ đề